Chiều 28-5, thảo luận tại Hội trường về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, các đại biểu Quốc hội bày tỏ đồng tình về sự cần thiết phải sửa Luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội cũng như yêu cầu hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả quản lý thuế trong giai đoạn tới.
25 đối tượng không chịu thuế
Về đối tượng không chịu thuế, hiện nay việc xác định hộ, cá nhân kinh doanh không phải nộp thuế GTGT căn cứ theo mức tiền lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp mà không căn cứ vào doanh thu nên không phù hợp với bản chất thuế GTGT là thuế gián thu thu theo hàng hoá dịch vụ, gây khó khăn, phức tạp cho cả người nộp thuế và công tác quản lý. Do đó các đại biểu Đỗ Văn Vẻ (Thái Bình), Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình), Dương Quang Sơn (Bắc Kạn) bày tỏ đồng tình việc cần thiết phải sửa đổi, bổ sung điều khoản này. Tuy nhiên, đại biểu Đỗ Văn Vẻ đề nghị cần quy định rõ hơn, cụ thể hơn các dịch vụ không chịu thuế GTGT.
Đại biểu Nguyễn Thanh Hải cho rằng, Luật hiện hành có 25 nhóm hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung có 18/25 nhóm hàng hóa, dịch vụ giữ nguyên; 6/25 nhóm được chỉnh sửa bổ sung. Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì vẫn là 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT như hiện hành.
Đại biểu này cho rằng, số lượng 25 nhóm đối tượng hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế là khá nhiều và căn cứ vào Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2020 còn chưa phù hợp. Bởi theo lý giải của đại biểu Nguyễn Thanh Hải, một trong những cải cách của Chiến lược cải cách hệ thống thuế là hướng tới giảm bớt đối tượng không chịu thuế, mà thông thường từ 3-5 năm mới sửa đổi Luật một lần, có nghĩa đến năm 2016 mới có thể sửa Luật này, trong khi đó nhóm đối tượng không chịu thuế GTGT lại không hề giảm bớt.
“Mặt khác bản chất thuế GTGT là thuế gián thu, đánh vào người mua chứ không phải người bán, chừng nào phạm vi đối tượng không chịu thuế còn lớn thì sẽ gây khó khăn cho DN trong công tác hoàn thuế”, đại biểu Nguyễn Thanh Hải nói.
Đồng tình với đại biểu Nguyễn Thanh Hải, Đại biểu Dương Quang Sơn cho rằng, cần giảm tối đa các loại hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT.
Ngưỡng kê khai thuế là phù hợp
Về ngưỡng đăng ký thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, Ban soạn thảo Luật sửa đổi, bổ sung đề xuất là 1 tỷ đồng/năm (tương đương khoảng 49 nghìn USD/năm). Việc xây dựng và áp dụng mức ngưỡng kê khai, nộp thuế GTGT để đơn giản thủ tục, tiết kiệm chi phí kê khai cho người nộp thuế, nâng cao hiệu quả quản lý, hạn chế hiện tượng gian lận hoá đơn để khấu trừ, hoàn thuế. Chính phủ trình Quốc hội bổ sung ngưỡng tính thuế để áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT đối với doanh nghiệp, HTX và cơ sở kinh doanh đăng ký tự nguyện. Theo tính toán của Ban soạn thảo, ở nước ta số lượng doanh nghiệp có doanh thu 0,5 tỷ đồng/năm trở xuống chiếm 27,7% tổng số và đóng góp 0,1% tổng thu thuế GTGT; số DN có doanh thu dưới 1 tỷ đồng/năm chiếm khoảng 30% và đóng góp 0,3% tổng thu thuế GTGT.
Đại biểu Trần Văn Huynh (Kiên Giang) đề nghị cần xem xét quy định mức ngưỡng doanh thu tính thuế thấp hơn phương án đề xuất của Chính phủ vì với mức doanh thu 1 tỷ đồng/năm thì tỷ lệ các doanh nghiệp thuộc diện áp dụng phương pháp trực tiếp là khá lớn, dẫn đến chưa thể hiện được bước tiến bộ hơn trong quản lý áp dụng thuế GTGT, chưa đáp ứng mục tiêu tiến tới cơ bản thực hiện phương pháp khấu trừ thuế đề ra trong Chiến lược cải cách thuế.
Bày tỏ đồng tình với quan điểm của cơ quan soạn thảo Luật sửa đổi, đại biểu Nguyễn Minh Lâm (Long An) cho rằng, tăng số tiền từ 500 triệu đồng lên 1 tỷ đồng là phù hợp với lý do: Luật thuế GTGT năm 1999 không quy định cụ thể mức tiền hoàn thuế. Đến Luật thuế GTGT sửa đổi, bổ sung năm 2004 mới quy định số tiền hoàn là 200 triệu đồng. Như vậy quy định này áp dụng đến nay đã được gần 10 năm.
“Theo quy định nêu trong dự thảo luật này số tiền hoàn tăng lên 500 triệu tức là trong vòng 10 năm tăng lên 2,5 lần. Trong khi đó tốc độ phát triển kinh tế, mức huy động thu ngân sách đã tăng lên hơn 2,5 lần, nên cần điều chỉnh tiền hoàn tăng lên 1 tỷ đồng là phù hợp. Mặt khác theo thống kê nếu tăng lên 1 tỷ đồng thì số lượng hồ sơ hoàn sẽ giảm khoảng 50%. Như vậy khối lượng công việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế sẽ giảm theo”, đại biểu Nguyễn Minh Lâm nhấn mạnh.
Về mức thuế tối thiểu được hoàn đối với đầu tư và xuất khẩu, Chính phủ trình Quốc hội sửa đổi mức tiền thuế đầu vào tối thiểu để được hoàn thuế trong trường hợp dự án đầu tư kéo dài trên 1 năm và xuất khẩu hàng hoá từ 200 triệu thành 500 triệu đồng (trường hợp số thuế GTGT đầu vào chưa đủ 500 triệu doanh nghiệp được kết chuyển để khấu trừ số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo).
Các đại biểu Trần Văn Huynh, Dương Quang Sơn đề nghị giữ nguyên như mức hiện hành vì nâng lên 2,5 lần (từ 200 triệu lên 500 triệu) sẽ gia tăng khó khăn vốn đối với DN do phải chờ hoàn thuế.
Chính sách “giảm thuế GTGT đầu ra đối với hoạt động bán, cho thuê, cho thuê nhà, cho thuê mua nhà ở, dự thảo luật quy định giảm 50% thuế GTGT đầu ra từ ngày mùng 1- 7-2013 đến hết ngày 30- 6-2014 đối với các hợp đồng bán, cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở và nhà ở là căn hộ có diện tích sàn dưới 70m2 và có giá bán 15 triệu đồng/m2” quy định trong Luật sửa đổi nhận được sự tán đồng của nhiều đại biểu Quốc hội.
Tuy nhiên một số ý kiến đề nghị cần có hệ thống giải pháp tổng thể, đồng bộ nhằm bảo đảm tính lan tỏa rộng lớn và đạt được hiệu quả đề ra khi ban hành chính sách. Ngoài ra, một số đại biểu cũng bày tỏ lo lắng việc quy định chỉ giảm thuế GTGT đầu ra cho nhà ở xã hội, theo quy định của pháp luật về nhà ở và nhà ở là căn hộ có diện tích sàn dưới 70m2, có thể sẽ dẫn đến tình trạng chia nhỏ diện tích sàn căn hộ, chỉ tập trung đầu tư các căn hộ có diện tích sàn dưới 70m2.
Về thời hạn giảm thuế, một số ý kiến tán thành với ý kiến thẩm tra của Ủy ban Tài chính- Ngân sách về đề nghị kéo dài thời hạn thực hiện chính sách này trong vòng 1 năm rưỡi, từ 1-7-2013 đến hết ngày 31-12-2014.
Kết luận phiên thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết, các đại biểu Quốc hội đã tán thành nhiều nội dung cơ bản trong tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính- Ngân sách. Về cơ bản đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu cần phải sửa đổi, bổ sung Luật.
Theo Phó Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân, đại biểu Quốc hội đề nghị phải hướng đến mục tiêu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011- 2020, chú ý tính khả thi, tính ổn định, bền vững của dự án Luật và tán thành sẽ thông qua dự án luật này tại kỳ họp thứ 5. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo nghiên cứu đầy đủ ý kiến của đại biểu Quốc hội thảo luận và sẽ có báo cáo giải trình lại Quốc hội trước khi xem xét thông qua theo chương trình tại kỳ họp này.