>
<>
“Nhân dân đóng thuế không phải để đi mua nợ, tại sao lại bắt nhân dân phải nai lưng ra gánh chịu những món nợ xuất phát từ những sai lầm của một nhóm người?”.<
><
>Đó là chia sẻ của Viện sỹ, TSKH tiền tệ - tín dụng Trương Công Phú, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Đầu tư phát triển, Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn kinh tế thuộc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông nói:
- Quan điểm của tôi, từ thực tiễn của các quốc gia trên thế giới cho thấy có thể thành lập những công ty mua bán nợ, nhưng nó phải là của tư nhân không thể dính dáng gì với Nhà nước. Không thể có chuyện Nhà nước thành lập ra một công ty có vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách.
Trước hết phải nói rằng tình hình nợ xấu trong nền kinh tế quốc dân không phải chỉ có gần đây mà đã có từ lâu. Ngay thời kỳ bao cấp tình hình dây dưa công nợ cũng đã rất lớn. Thậm chí Chính phủ phải thành lập Ban thanh toán công nợ dây dưa, chính tôi cũng được tham gia vào ban thanh toán công nợ hồi đó. Nhưng hồi ấy hầu như không có tư nhân chỉ có quốc doanh và nợ nần quanh quẩn với nhau, ví dụ anh A mắc nợ anh B, anh B mắc nợ anh C, anh C lại mắc nợ anh A tức là lòng vòng với nhau như vậy... Và nợ xấu chủ yếu là do cơ chế chứ rất ít có chuyện thất thoát, tham nhũng vì thế việc tổ chức thanh toán những món nợ này dễ hơn. Chỉ cần dùng phương pháp bù trừ là ra hết và con số còn lại là rất nhỏ và giải quyết thường là thành công.
“Nợ kia cũng có ba bảy đường”
Nợ bây giờ xuất phát từ rất nhiều lý do. Có thể do các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đầu tư vào sản xuất dài và ngắn hạn, nhưng người ta không lường trước hết được những rủi ro sẽ xảy ra nên không thu hồi được vốn sinh ra công nợ dây dưa. Mặt khác, có thể do dự án tốt nhưng những người điều hành, thực hiện dự án kém nên nảy sinh những bất cập. Trước đây khi cho vay chúng tôi thường tìm hiểu con người, lý lịch và năng lực liệu những người thực hiện có năng lực điều hành được dự án hay không.
Đặc biệt, nợ xấu xuất phát là do phía ngân hàng, quản lý không chặt, không tôn trọng đúng cơ chế cho vay. Một trong những nguyên tắc được cho vay là phải có vật tư đảm bảo.
Ví như cho anh vay 100 tỷ để anh mua 1 con tàu thì anh phải đánh giá được công nghệ của con tàu đó như thế nào, trình độ sử dụng hiệu quả ra sao ngân hàng phải đánh giá được. Nhưng thực tế nhiều khi đã không làm được như vậy. Ngân hàng phải tính được hiệu quả của từng dự án dù đó là món lớn như vay mua một con tàu hay những món vay nhỏ hơn rất nhiều. Vì không làm được nên đơn vị vay đã sai rồi, ngân hàng lại sai thêm.
Điều này dẫn tới hệ lụy là vay đầu tư không hiệu quả. Ví như các món nợ của Vinashin dù cho ai đó có nói sẽ thu hồi được nợ nhưng với tư cách là nhà quản lý kinh tế tôi không tin sẽ làm được điều này. Với những món vay khổng lồ như vậy thì chuyện trả lãi đã khó chứ đừng nói đến chuyện trả gốc.
Tôi muốn nói một chút về tái cơ cấu Vinashin. Hiện nay người ta đang đẩy một số đơn vị đang thua lỗ sang vào một số đơn vị khác, nhưng hậu quả xấu là có thể thấy được. Ví như 1 con gà đã bị dịch rồi, nay đưa sang các chuồng khác thì bệnh dịch nó sẽ lây lan theo.
Nợ xấu sinh ra do khâu thẩm định kém, nhưng nguy hiểm nhất là bóng dáng của trục lợi, tham nhũng lấp ló đằng sau đó. Trên thực tế có những trường hợp khi vay người ta được hưởng những khoản “hoa hồng” rất lớn. Tôi đã từng khuyên cán bộ ngân hàng cần cảnh giác với những người vay mới. Đã sẵn sàng “chi đậm” hoa hồng lên tới hàng chục, hàng trăm triệu đồng là “có vấn đề”, vì họ sắp chết nên mới có những động thái bất thường ấy.
Tại sao ngân hàng thích bán nợ xấu?
Vì nếu bán được những món nợ ấy thì mọi tội lỗi của họ sẽ được xóa hết, thậm chí được hợp pháp hóa những món nợ ấy. Hiện mỗi ngân hàng đều có quĩ phòng ngừa rủi ro trích lập từ lợi nhuận kinh doanh tại sao không dùng quĩ này để xử lý các món nợ đi. Nhưng thực tế các ngân hàng chỉ thích bán các món nợ. Sâu xa của vấn đề này là do các ngân hàng thương mại sợ khi cơ quan chức năng vào cuộc xử lý sẽ phát hiện ra những khuất tất và sẽ lòi ra nhiều chuyện khác ra.
Thực ra, qui định của nhà nước cũng đã có cả rồi. Ví như nếu để phát sinh ra nợ xấu mà do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng như thiên tai, địch họa hay thị trường thế giới thay đổi đột biến, nghĩa là lỗi không thuộc về bên cho vay thì có thể dùng quĩ phòng ngừa rủi ro đó để xóa nợ. Nhưng những món nợ như vậy đã được xử lý hết rồi, nay chỉ còn lại toàn xương xẩu, nghĩa là những món nợ xấu. Nguyên nhân của những khoản xương xẩu này là do sai sót trong quản lý, do tham nhũng nên rất khó xử lý.
Quan điểm của tôi, từ thực tiễn của các quốc gia trên thế giới cho thấy có thể thành lập những công ty mua bán nợ, nhưng nó phải là của tư nhân không thể dính dáng gì với Nhà nước. Không thể có chuyện Nhà nước thành lập ra một công ty có vốn ngân sách hoặc có nguồn gốc từ ngân sách, ví như một doanh nghiệp có vốn 100 tỷ làm lãi ra thành 150 tỷ nhưng phần lãi ấy cũng có nguồn vốn từ ngân sách chứ không thể là vốn riêng của doanh nghiệp được. Và đương nhiên, tất cả những khoản vốn này phải sử dụng theo Luật Ngân sách không thể sử dụng vào những mục đích khác, ví như để mua bán nợ của các thương mại...
Tôi ủng hộ việc thành lập 1 công ty mua bán nợ, nhưng công ty đó phải là của tư nhân. Hơn thế, việc hoạt động mua bán nợ như thế nào cũng phải xem xét kỹ lưỡng, chứ cứ mua nợ về nhưng không biết sẽ thu hồi lại như thế nào thì trước sau gì cũng chết.
Nhà nước và Chính phủ phải đề phòng những vấn đề sau: ví như người ta nói món nợ ấy giá 100 tỷ nhưng nay giá trị thực còn lại là bao nhiêu lại chưa xác định được. Những phát biểu gần đây nhiều vị cứ nói chung chung chứ chưa cụ thể về vấn đề này. Mà cái này quan trọng lắm, nếu xác định giá nợ cao thì ngân hàng được lợi mà giá thấp thì người mua nợ có khi không thu hồi được.
Đây là một vấn đề phức tạp, mà thu hồi được hay không còn phụ thuộc vào một yếu tố quan trọng là chỉ có ngân hàng và đơn vị vay nợ ngân hàng mới hiểu rõ các ngóc ngách phát sinh những món nợ xấu. Nên nếu anh là người ngoài cuộc cứ mua và tự xử lý thì khó lắm, vì ông ngân hàng đã rõ hết mọi chuyện mà còn không thu được, thì người ngoài vào thu thì còn lâu!
Khi đã xác định được giá rồi thì vấn đề tiếp theo sẽ là mua của ai, anh mua của ngân hàng nào hay mua nợ của tất cả các ngân hàng? Anh có mua hết được nợ không, nếu không mua được hết thì sẽ dẫn tới tiêu cực: ngân hàng nào “hậu đãi” anh thì anh sẽ mua nợ cho ngân hàng đó, còn đơn vị nào không có màu mè thì không mua... Mua của ai, ai được bán, ai được mua nợ cần phải làm rõ ràng, minh bạch.
Tôi luôn phản đối chuyện Nhà nước đứng ra mua những khoản nợ này vì rủi ro nhiều lắm, lớn lắm. Cho nên nếu Nhà nước ứng vốn của ngân sách ra mà mua thì thực chất tiền này là lấy tiền đóng thuế của dân. Mà nhân dân đóng thuế không phải để đi mua nợ, tại sao lại bắt nhân dân phải nai lưng ra gánh chịu những món nợ xuất phát từ những sai lầm của một nhóm người? Cũng có lập luận tại sao các nước tư bản lại có công ty mua bán nợ xấu?
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Việt Nam tuy là nền kinh tế thị trường nhưng lại có định hướng xã hội chủ nghĩa, chứ không phải nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản. Nhà nước tư bản bảo vệ quyền lợi của tầng lớp tư sản, nên sẵn sàng lấy tiền thuế của dân để mua nợ nhưng chúng ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân tại sao lại phải dùng tiền để mua lại một món nợ của một nhóm lợi ích nào đó và để cho nhóm này giàu lên?
Hơn thế, ngân sách hàng năm của chúng ta đã được Quốc hội phê duyệt lấy đâu ra 100.000 tỷ đồng bây giờ, còn nếu sử dụng đến động thái in tiền ra thì sẽ ngay lập tức sẽ gây ra lạm phát khiến đời sống nhân dân càng thêm điêu đứng. Có ý kiến là phát hành trái phiếu trong nước, ngoài nước để có tiền. Nhưng nếu Chính phủ làm như vậy thì cũng là lấy tiền của dân sau này phải trả cho họ, nếu không thu hồi được thì phải lấy thuế trả cho họ chứ. Điều này là không thể được!
Nợ xấu không phải do cơ chế
Chính phủ không thể lấy tiền để nuôi béo giới ngân hàng thương mại, mà đằng sau những ngân hàng này là thường chỉ là một số cá nhân. Để làm rõ chuyện này cũng cần thiết phải đi ngược lại câu chuyện: Tại sao một số người lại thích đầu tư vào ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng cổ phần ngoài quốc doanh. Câu chuyện này không đơn giản là chuyện đầu tư làm ăn của những người có tiền, mà đây thực chất là những câu chuyện của một số “đại gia” muốn kiếm lãi khủng.
Vì đầu tư vào các ngành khác thì anh có 1 đồng vốn chỉ huy động được vài ba đồng khác, nhưng đầu tư vào ngân hàng thì 1 đồng vốn có thể sẽ huy động được 20 đồng khác. Hơn thế, với cơ chế hiện hành thì ngân hàng không bao giờ lỗ. Thời trước, chênh lệch giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay khoảng 2,5% cũng đã thoải mái rồi, nay thì cho tới 3%, thậm chí có thể 4%, biên độ chênh lệch này là quá lớn ví như người ta huy động 10% nhưng có thể cho vay đến 15 - 17%. Trong bối cảnh mà các doanh nghiệp đang chết mòn như hiện nay, khoản chênh lệch lãi suất theo tôi chỉ 1-2% là vừa chứ cho 3 - 4% là quá cao!
Cơ chế như vậy đã cho phép ngân hàng lúc nào cũng lãi. Vì thế không thể nói các khoản nợ xấu tại hệ thống ngân hàng thương mại là do cơ chế quá ngặt nghèo mà là do trình độ quản trị, yếu kém, sơ hở ngay trong hệ thống và phần khác là do thất thoát, tham nhũng...
<
>Theo Hà Tâm
Vneconomy<