Khai thuế đối với cá nhân cư trú có thu nhập trong trường hợp 02 năm cư trú đủ và thiếu 183 ngày

15/11/2018

CĂN CỨ PHÁP LUẬT:

- Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 của Quốc hội;

- Nghị định 100/2008/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân;

- Thông tư 84/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân;

LUẬT SƯ TƯ VẤN:

Khai thuế đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công trong trường hợp số ngày có mặt tại Việt Nam tính trong năm dương lịch là dưới 183 ngày, nhưng tính trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày trở lên.

- Năm tính thuế thứ nhất: Khai và nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày tính đủ 12 tháng liên tục.

- Năm tính thuế thứ hai: Khai và nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch.

Số thuế phải nộp trong năm thứ 2 sẽ được trừ cho phần thuế đã nộp trong năm tính thuế thứ nhất tương ứng thời gian trùng với năm tính thuế thứ 2.

Số thuế tính trùng được trừ vào năm tính thuế thứ 2 được xác định như sau:

 

Số thuế được tính trùng được trừ

 

=

Số thuế phải nộptrong năm tính thuế thứ nhất

 

x

 

Số tháng tính trùng

12

 

Ví dụ: Ông A đến Việt Nam làm việc từ ngày 01/5/20010 (là ngày ghi trên hộ chiếu của ông A) và có thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam.

Giả sử từ 01/5/2010 đến 31/12/2010, ông A có mặt tại Việt Nam là 160 ngày; từ ngày 01/01/2011 đến 30/4/2011, ông A có mặt tại Việt Nam 30 ngày. Như vậy trong năm 2010 ông A không đủ thời gian có mặt tại Việt Nam để được xác định là cá nhân cư trú (160 ngày nhỏ hơn 183 ngày). Tuy nhiên nếu tính trong 12 tháng liên tục (từ ngày 01/5/2010 đến ngày 30/4/2011) ông A có mặt tại Việt Nam tổng cộng là 190 ngày (160 + 30), do đó ông A vẫn được xác định là cá nhân cư trú.

Năm tính thuế thứ nhất của ông A được xác định từ ngày 01/5/2010 đến hết ngày 30/4/2011, ông A phải nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày 30/4/2011.

Năm tính thuế thứ hai của ông A được xác định từ ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2011; ông A phải nộp hồ sơ quyết toán thuế chậm nhất là ngày thứ 90 kể từ ngày 31/12/2011.

Số thuế phải nộp trong năm thứ hai của ông A được trừ phần thuế đã nộp trong năm thứ nhất tương ứng với thời gian trùng với năm tính thuế thứ hai cụ thể là các tháng 1,2, 3, 4.

Số thuế tính trùng của năm 2010 được trừ vào năm tính thuế thứ 2011 của ông A, được xác định như sau:

 

 

Số thuế được tính trùng được trừ

 

=

 

Số thuế phải nộp trong năm 2010

 

x

 

4 tháng

Cùng danh mục

Thời điểm xác định hành vi trốn thuế, gian lận thuế của người nộp thuế

Theo Tổng cục Thuế, thời điểm xác định hành vi trốn thuế, gian lận thuế của người nộp thuế (NNT) được thực hiện để tính thời hiệu xử phạt là ngày tiếp theo ngày cuối cùng của hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế hoặc hạn nộp hồ sơ khai quyết toán thuế...

Giải đáp thắc mắc về giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc (Công văn 2412/TCT-TNCN)

Công văn 2412/TCT-TNCN năm 2014 vướng mắc về giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc của cục Thuế tỉnh Kiên Giang do Tổng Cục Thuế ban hành.