Tại công văn số 13230/BTC-TCT ngày 18 tháng 9 n ăm 2009 của Bộ Tài chính trả lời công văn cố 805/TSĐH của Công ty Seadrill Larissa Limited hỏi về việc xác định tình trạng cư trú theo Luật thuế TNCN cho nhân việc người nước ngoài làm việc ngoài khơi như sau:
Căn cứ hướng dẫn tại khoản 1, Mục I, Phần A Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP nhàu 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân về xác định điều kiện cá nhân cư trú tại Việt Nam trong đó bao gồm đối tượng là cá nhân có nhà thuê để ở tại Việt Nam với thời hạn của hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế, cụ thể: tại tiết 1.2.2 đã hướng dẫn:
Có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời hạn của hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế, cụ thể như sau:
a) Cá nhân chưa hoặc không có nơi ở được đăng ký thường trú, hoặc không được cấp Thẻ thường trú, Thẻ tạm trú theo hướng dẫn nêu trên, nhưng có tổng số ngày thuê nhà theo hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế cũng thuộc đối tượng là cá nhân cư trú, kể cả trường hợp thuê ở nhiều nơi.
b) Nhà thuê để ở bao gồm cả trường hợp ở khách sạn, ở nhà khách, nhà nghỉ, nhà trọ, ở nơi làm việc, ở trụ sở cơ quan,... không phân biệt cá nhân tự thuê hay người sử dụng lao động thuê cho người lao động.
Trường hợp nhân viên nước ngoài tới Việt Nam công tác, làm việc ngắn hạn trên các giàn khoan và các tàu ngoài khơi thuộc lãnh hải Việt Nam, do tính chất đặc thù công việc phải ở lại giàn khoan và tàu ngoài khơi từ 90 ngày đền dưới 183 ngày tính trong 1 năm dương lịch hoặc 12 tháng liên thì không thuộc đối tượng áp dụng điều kiện cư trú nêu trên; các trường hợp này thuộc đối tượng không cư trú tại Việt Nam.